Cô giáo 19 năm bám bản, mang con chữ đến với học trò vùng cao
Vì yêu thương mà gắn bó
Sinh năm 1981, dù sinh ra và lớn lên ở Hưng Yên, nhưng cô giáo Đỗ Thị Nhàn không lựa chọn lập nghiệp tại vùng đồng bằng mà nuôi dưỡng ước mơ dạy học ở Yên Bái.
Cô Nhàn kể: “Năm 1996, mình được bố đi làm ở Yên Bái dẫn theo và học trường cấp 3 tại đây. Khi mình lên đây, người dân khổ hơn bây giờ rất nhiều nhưng con người nơi đây sống với nhau thật thà, chân chất, san sẻ cùng nhau. Vì vậy mà từ ngày ấy mình đã nghĩ dù học bất cứ ngành gì cũng quyết tâm quay trở lại đây để giúp đỡ bà con, đặc biệt là các em nhỏ”.
Hồi đó, cô Nhàn nguyện vọng thi vào hai ngành có sức ảnh hưởng lớn đến cuộc sống bà con vùng cao nhất là y và sư phạm. Sau đó cô quyết tâm trở thành giáo viên khi theo học tại trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc và thực hiện được ước mơ của mình là quay lại Yên Bái dạy học.
Cô Đỗ Thị Nhàn tâm sự, nhiều thầy cô giáo bám bản dạy học ở nơi khác đến nên dù xa nhà nhưng ở tập thể có những ngày đầu khó khăn đều được chia sẻ, giúp đỡ.
Những ngày đầu tiên trở thành giáo viên bám bản, cô Nhàn gặp nhiều trở ngại, lúng túng khi giao tiếp vì chưa hiểu được ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số. Đối diện với khó khăn, cô giáo trẻ lại càng quyết tâm dạy tiếng phổ thông, mang con chữ đến với các em nhỏ ở các bản làng.
“Giáo viên miền núi cách đây 19 năm khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Không điện, không nước, không đủ điều kiện về cơ sở vật chất. Mỗi giáo viên muốn nấu ăn phải tự đi ra suối lấy nước, kiếm củi về đun. Nhà tranh, vách nứa dựng tạm, có nơi che mưa, che nắng qua ngày để dạy học.
Thế nhưng mọi người vẫn luôn nỗ lực cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Mình nghĩ chỉ có tình yêu thương mới có thể vượt qua những khó khăn, vất vả. Bây giờ bà con dân bản đã hiểu được sự quan trọng của giáo dục và quyết tâm cho con em đi học. Đó chính là quả ngọt mà các giáo viên bám bản được gặt hái sau nhiều cố gắng”, cô Nhàn tâm sự.
Ánh mắt buồn rầu của những đứa trẻ mong ước đi học nhưng không đủ sách vở, quần áo. Những bữa cơm lúc no, lúc đói, nhiều ngày phải ăn ngô… là những điều ám ảnh, nhưng lại tiếp thêm sức mạnh để cô Nhàn tiếp tục hành trình dạy học gian nan ở mảnh đất nghèo – ấm tình người.
Là giáo viên, người sát cánh cùng các em trong từng bước đường đến với văn hóa, với con chữ, cô Đỗ Thị Nhàn còn chủ động kết nối, kêu gọi các nhóm thiện nguyện giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
Từ câu chuyện cậu học trò được xin sách gọi cô bằng mẹ, đến cô nữ sinh đại học hôm nay nhớ mãi chiếc quần màu vàng do cô Nhàn xin được để phấn đấu. Tất cả để lại dấu ấn không chỉ là một cô giáo dạy chữ mà đó là cả những bài học làm người, bài học về sự sẻ chia từ một người làm nghề giáo.
Hành trình vượt khó mang chữ vào bản
Cô Nhàn chia sẻ: “Học sinh hầu hết ở xa trường, đường đến trường toàn đồi dốc đi lại khó khăn. Bản thân mình mỗi lần đi vận động học sinh phải đi hết quả đồi này đến quả đồi khác. Đi đến từng bản như thế mới thấm được các em đi học vất vả như thế nào. Có những em muốn đến trường phải lội qua suối. Mùa nước cạn thì không sao nhưng mùa nước lũ thì hầu hết các em phải nghỉ học.
Những năm gần đây, một số học sinh xa quá thì được tạo điều kiện ăn ở lại trường nên cũng đỡ vất vả. Những học sinh còn đi qua suối, qua sông thì nay được xã và nhà trường hỗ trợ tiền thuyền bè đi học. Vì thế số học sinh đến trường ngày càng nhiều hơn, học sinh bỏ học, nghỉ học cũng ít hơn”.
Vừa qua, tình hình dịch bệnh căng thẳng khiến học sinh không thể đến trường nên phương án dạy học trực tuyến cũng được Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Tân Lĩnh triển khai. Dạy học trực tiếp vốn đã khó khăn thì phương án dạy học trực tuyến lại thêm nhiều trở ngại.
Đối với học sinh vùng cao phải xác định nếu triển khai học trực tuyến thì tỉ lệ hiệu quả rất thấp vì điều kiện trang thiết bị cho một buổi học của các em phần lớn không đảm bảo. Người có thiết bị thì không có đường truyền, người có đường truyền thì thiết bị không có…
Tại địa phương, hầu hết các em ở với ông bà lớn tuổi, bố mẹ dù đã rất quan tâm nhưng phải đi làm kinh tế nên cũng không thể đồng hành cùng con trong các giờ học”, cô Nhàn cho hay.
Để đảm bảo được kiến thức sau khi hết dịch có thể đi học lại bình thường, cô Đỗ Thị Nhàn cùng các đồng nghiệp đã đi đến tận các thôn, bản đưa bài, giao bài, thậm chí đối với một số học sinh chậm hiểu, cá biệt, giáo viên còn phải vào tận nơi hướng dẫn, kèm cặp học sinh.
“Ở trường mình nhiều học sinh ở xa, thời tiết ở đây thì lúc nắng, lúc mưa, học sinh nghỉ học 1,2 buổi sẽ hổng kiến thức mà chán học, không muốn đến trường.
Vì thế mình luôn quan niệm giáo viên là phải thấu hiểu để chia sẻ, kèm cặp, giúp đỡ học sinh, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các em có thể tới trường, hứng thú đi học, được học.
Học trực tuyến cũng như học trực tiếp, nếu hoàn cảnh khó khăn thì khắc phục hoàn cảnh để cố gắng đạt kết quả tốt nhất có thể. Chính vì thế, giáo viên vào bản không chỉ mang bài đến với học sinh mà là mang cả sự nhiệt huyết, tận tâm và cả tình yêu thương đến với các em học sinh”, cô Nhàn cho biết.
Ngoài dạy học tại trường, những giáo viên miền núi như cô giáo Nhàn còn nhận nhiệm vụ xóa mù chữ tại chữ tại các bản làng.
Đường đi ở đây vốn dĩ ngoằn nghoèo, dốc đá, nhưng những lớp học xóa mù chữ lại tranh thủ vào tối muộn vì chỉ có lúc đó bà con, đồng bào dân tộc mới nghỉ ngơi, mới có thời gian học chữ.
“Không phải ai cũng sẵn sàng cho việc học chữ, biết chữ. Phần lớn những người đến lớp xóa mù chữ đã lớn tuổi. Ngoài việc họ không biết chữ thì vẫn còn ít nhiều những suy nghĩ lạc hậu, cổ hủ. Do đó, giáo viên vào bản dạy chữ buổi tối không chỉ làm công tác giáo dục mà còn làm công tác tư tưởng, mở ra những quan niệm cuộc sống mới, thay đổi nhận thức về giáo dục ở cùng cao”, cô Nhàn tâm sự.
Những vất vả, khó khăn sẽ vẫn còn nhiều nhưng tin chắc rằng cuộc sống bà con, học sinh vùng cao sẽ thay đổi diện mạo bởi có những giáo viên đầy tâm huyết cống hiến như cô giáo Đỗ Thị Nhàn.
“Chồng mình cũng làm công tác trong ngành giáo dục nên có một chỗ dựa vững chắc về tinh thần, để chia sẻ, thấu hiểu những vất vả của vợ.
Với bản thân mình, mình chỉ muốn làm như thế nào để tất cả các em học sinh đều được đến trường, được đầy đủ về điều kiện học tập. Khi nhận thức về giáo dục cao hơn thì đời sống nhân dân vùng núi mới phát triển hơn.
Đã có những học trò học tập, thành đạt và quay trở về Yên Bái để giúp đỡ lớp trò nhỏ của quê hương đến trường. Đó là hình ảnh đẹp và đó cũng là động lực cho các thầy, cô giáo miền núi như mình cống hiến cho giáo dục vùng cao”, cô Nhàn bày tỏ.
Theo Giáo dục Việt Nam